GIỚI THIỆU ĐÔI NÉT VỀ TỈNH THANH HÓA

A. Điều kiện tự nhiên:

I. Tọa độ địa lý.
Bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hóa

Thanh Hoá là một tỉnh lớn của Bắc Trung Bộ có toạ độ địa lý:

            – Điểm cực Bắc: 20040’B (tại xã Tam Chung – huyện Quan Hoá)

            – Điểm cực Nam: 19018’B (tại xã Hải Thượng – Tĩnh Gia)

            – Điểm cực Đông: 106004’Đ (tại xã Nga Điền – Nga Sơn)

            – Điểm cực Tây: 104022’Đ (tại chân núi Pu Lang – huyện Quan Hóa)

Thanh Hoá có lãnh thổ rộng lớn: 11.129,48 km2, là tỉnh có diện tích lớn thứ 5 trong cả nước. Về vị trí địa lý, Thanh Hóa tiếp giáp với các tỉnh và nước bạn như sau:

– Phía Bắc: giáp 3 tỉnh, gồm: Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình với đường ranh giới dài 175km.

            – Phía Nam : giáp Nghệ An với đường ranh giới dài 160 km

            – Phía Đông: giáp biển Đông với chiều dài đường bờ biển 102 km.

            – Phía Tây: giáp tỉnh Hủa Phăn của nước CHDCND Lào với đường biên giới dài 192km.

Thanh hoá nằm ở vị trí trung chuyển giữa các tỉnh phía Bắc và các tỉnh phía Nam nước ta. Trong lịch sử nơi đây từng là căn cứ địa vững chắc chống ngoại xâm, là kho nhân tài vật lực phục vụ tiền tuyến.

Tỉnh Thanh Hoá nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Với 102 km đường bờ biển ở đây có thể phát triển hoạt động du lịch, khai thác cảng biển; có đường quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh, đường sắt xuyên Việt và sân bay Thọ Xuân. Thêm vào đó, Thanh Hóa có quy mô diện tích lớn với nhiều vùng sinh thái khác nhau.

Đặc điểm về vị trí địa lý trở thành một trong những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội của tỉnh Thanh Hóa.

II. Địa chất.

Trong quá trình tồn tại, lãnh thổ Việt Nam nói chung và Thanh Hoá nói riêng đã trải qua nhiều chấn động địa chất lớn. Vỏ trái đất được cấu tạo phức tạp và trong quá trình thành tạo, chịu tác động của nhiều lực khác nhau, liên quan đến nhiệt năng trong lòng đất và năng lượng của mặt trời. Những quá trình nội sinh như tạo sơn, núi lửa, động đất… làm địa hình không đều và tạo thành các đá mắc ma và biến chất có liên quan đến chúng. Những quá trình ngoại sinh như phong hoá đá, tác động của nước, gió, băng hà xuất hiện biển… làm biến đổi địa hình và tạo ra đá trầm tích.

Các chấn động uốn nếp làm nảy sinh hiện tượng tạo sơn mãnh liệt. Đoạn uốn nếp Tam Điệp là mốc kết thúc giai đoạn “biển tiến” tạo ra bán đảo Đông Dương. Do vận động địa chất lãnh thổ Thanh Hoá nâng lên thành núi, đồi uốn nếp, xếp nếp, chia khối phân tầng… phức tạp và đa dạng. Trải qua 120 triệu năm chịu ảnh hưởng của chấn động tạo sơn Himalaya, lục địa Thanh Hoá có hiện tượng nâng lên, lún xuống và tiếp tục bị phong hoá. Kết quả là một số núi biến thành đồi, một số vùng biển được lấp đi thành châu thổ phì nhiêu như hiện nay. Cũng do hiện tượng nâng lên lún xuống, mắc ma trào lên mặt đất và đáy biển hình thành nên những loại đá quý, những dãy núi granit.

III. Địa hình  

  1. Đặc điểm chung:

Địa hình Thanh Hoá khá phức tạp, chia cắt nhiều và thấp dần theo hướng Tây – Đông. Từ phía Tây sang phía Đông có các dải địa hình núi, trung du, đồng bằng và ven biển. Trong tổng diện tích 11.129,48 km2 thì địa hình núi, trung du chiếm 73,3% ; đồng bằng 16% và vùng ven biển 10,7%.

  1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành phát triển của địa hình.

Địa hình núi trung du gắn liền với hệ núi cao phía Tây Bắc và hệ núi Trường Sơn ở phía Nam. Đó là dải địa hình nằm ở rìa ngoài của miền Tây Nam Bắc Bộ đang được nâng lên, tiếp giáp với miền sụt võng là các đồng bằng châu thổ. Đây là những khu vực núi thấp uốn nếp được cấu tạo bằng nhiều loại đá khác nhau, từ các đá trầm tích (đá phiến, đá vôi, cát kết, cuội kết, sỏi kết…) đến các đá phun trào (riolit, bazan), đá xâm nhập (granit), đá biến chất (đá hoa). Chúng nằm xen kẽ với nhau, có khi lồng vào nhau và điều đó làm cho phong cảnh thay đổi không ngừng.

Địa hình đồng bằng được hình thành bởi sự bồi tụ của các hệ thống sông Mã, sông Chu, sông Yên.

Còn dải địa hình ven biển như sau: với các đảo đá vôi rải rác ngoài vụng biển, dòng phù sa ven bờ được đưa ra từ các cửa sông đã tạo nên những trầm tích dưới dạng mũi tên cát cô lập dần những khoảng biển ở phía trong và biến chúng thành những đầm nước mặn. Những đầm này về sau bị phù sa sông lấp dần, còn những mũi tên cát thì ngày càng phát triển rộng thêm, nối những cồn cát duyên hải thành những chuỗi dài chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam dạng xoè nan quạt.

  1. Các khu vực địa hình.

Bao gồm  có 3 dạng địa hình: núi và trung du; đồng bằng ven biển.

– Địa hình núi có độ cao trung bình 600 -700m, độ dốc trên 250; ở đây có những đỉnh núi cao như Tà Leo (1560 m) ở hữu ngạn sông Chu, Bù Ginh (1291m) ở tả ngạn sông Chu.

– Địa hình trung du có độ cao trung bình 150 – 200m, độ dốc 12 – 200, chủ yếu là các dạng đồi thấp, đỉnh bằng, sườn thoải. Dạng địa hình này rất đặc biệt, chỉ nhấp nhô lượn sóng và rất thoải.

Dạng địa hình núi và trung du phân bố ở 11 huyện miền núi của tỉnh; là điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành nông – lâm nghiệp với các loại cây lâm sản và các cây như đậu, chè, lạc, mía… các cây trồng nói trên là cơ sở để phát triển ngành chế biến nông – lâm  sản của Thanh Hoá.

– Đồng bằng châu thổ Thanh Hoá được cấu tạo bởi phù sa hiện đại, trải dài trên một bề mặt rộng hơi nghiêng về phía biển ở mé Đông Nam. Rìa Bắc và Tây Bắc là dải đất cao được cấu tạo bởi phù sa cũ của sông Mã, sông Chu, cao từ 2 – 15m. Trên đồng bằng nhô lên một số đồi núi có độ cao trung bình 200 – 300m được cấu tạo bằng nhiều loại đá khác nhau. Còn vùng ven biển phân bố chủ yếu ở các huyện, thị xã: Sầm Sơn, Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Xương, Tĩnh Gia. Trên địa hình này có các vùng sình lầy ở Nga Sơn và các cửa sông Mã, sông Yên… Vùng đất cát ven biển nằm ở phía trong các bãi cát, có độ cao trung bình từ 3 – 6m, ở phía Nam Tĩnh Gia, chúng có dạng sống trâu do các dãy đồi kéo dài ra biển. Bờ biển của đồng bằng Thanh Hoá là bờ biển phẳng với thềm lục địa tương đối nông và rộng. Trên địa hình ven biển này có nhiều bãi tắm nổi tiếng, như: Sầm Sơn, Hải Hòa, Hải Tiến. Đây là một trong những điểm du lịch hấp dẫn thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.

Về địa hình của Thanh Hoá rất phong phú, đa dạng; là điều kiện để Thanh Hoá phát triển các ngành nông – lâm – ngư nghiệp toàn diện và cho phép chuyển dịch cơ cấu dễ dàng trong nội bộ từng ngành. Nhiều cảnh quan đẹp kết hợp giữa rừng – biển – đồng bằng là điều kiện để phát triển du lịch, dịch vụ. Độ cao chênh lệch giữa các vùng miền núi, trung du, đồng bằng với nhiều hệ thống sông suối, tạo ra tiềm năng thuỷ điện khá phong phú…

IV. TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN.

1. Tài nguyên đất.

Thanh Hóa có 14 nhóm đất chính với 28 loại đất khác nhau, đặc điểm các nhóm đất chính được giới thiệu trong bảng sau:

 

CÁC NHÓM ĐẤT CHÍNH CỦA THANH HÓA

Ký hiệu Nhóm đất Diện tích (ha) Phân bố
1 2 3 4
E Đất Feralit xói mòn trơ sỏi đá, phát triển trên các đá sa thạch, gnai

Thích hợp với các cây trồng lâm nghiệp lá nhọn, nhu cầu dinh dưỡng không cao

19.998 Phân bố rải rác ở nhiều nơi có địa hình vùng đồi ở Ngọc Lặc, Thường Xuân, Thạch Thành, Bỉm Sơn, Hà Trung, Hậu Lộc, Quảng Xương, Hoằng Hóa
Fh Đất mùn vàng đỏ trên núi

Thích hợp với cây lâm nghiệp và rừng tự nhiên

86.720 Phân bố trên núi cao 800m, như ở Quan Hóa, Lang Chánh, Như Xuân, Thường Xuân, Bá Thước, Quan Sơn, Mường Lát
Fa Đất vàng nhạt trên đá macma axit

Thích hợp với cây ăn quả, cây công nghiệp

136.737 Phân bố ở Quan Hóa, Tây Bắc Lang Chánh, Thường Xuân
Fs Nhóm đất đỏ vàng phát triển trên các loại đá mẹ khác nhau: macma bazơ, trung tính, axit, trầm tích, biến chất…

Thích hợp với cây lâm nghiệp, cây công nghiệp

335.537 Phân bố ở các huyện Thạch Thành, Cẩm Thủy, Ngọc Lặc, Bá Thước, Như Xuân, Như Thanh
Fk Đất nâu đỏ phát triển trên đá macma bazơ và trung tính

Thích hợp với cây công nghiệp

44.268 Phân bố rộng rãi ở nhiều vùng thuộc các huyện vùng núi
Fp Đất vàng nhạt trên phù sa cổ

Thích hợp với cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày

16.696 Phân bố rộng rãi ở nhiều vùng thuộc Nông Cống, Tĩnh Gia, Như Thanh
Fq Đất vàng nhạt trên đá cát Thích hợp với cây lâm nghiệp 89.893 Phân bố rộng rãi ở nhiều vùng cát kết cổ thuộc Nông Cống, Tĩnh Gia, Như Thanh
Fj Đất đỏ vàng trên đá biến chất

Thích hợp với cây lâm nghiệp, cây công nghiệp đặc thù

1.525 Phân bố ở huyện Như Xuân
Rr Đất đen

Thích hợp với cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày

3.830 Tập trung nhiều ở vùng núi Nưa
Li,Ly Đất lầy, than bùn

Thích hợp cho việc phát triển đồng cỏ

10.959 Phân bố trên các địa hình trũng khó thoát nước ở các huyện trung du miền núi Như Xuân, Bá Thước, Quan Hóa, Thạch Thành, Lang Chánh, Ngọc Lặc, Cẩm Thủy
Ba Đất bạc màu phát triển trên đá sản phẩm dộc tụ và trên phù sa cổ

Thích hợp với cây họ đậu và lúa một vụ

26.538 Phân bố trên các địa hình bằng phẳng có nguồn gốc đồng bằng cổ có độ cao tuyệt đối cao hơn các đồng bằng phù sa
P Đất phù sa: Bao gồm loại được bồi hàng năm và loại không được bồi hàng năm, đất phù sa glây và phù sa úng nước vào mùa hè

Thích hợp cho cây lúa

141.275 Tập trung chủ yếu ở đồng bằng, một phần ở ven biển và trung du miền núi thuộc các huyện: Triệu Sơn, Thọ Xuân, Nông Cống, Vĩnh Lộc, Yên Định, Thiệu Hóa, Quảng Xương, Hà Trung, Nga Sơn, Cẩm Thủy
M Đất mặn

Thích hợp trồng cói, nuôi thủy sản và làm muối

12.004 Tập trung ở 6 huyện, thị xã ven biển và khoảng 650ha ở huyện Nông Cống
Cc Đất cát bãi, cát biển (trồng rau quả, cây công nghiệp ngắn ngày)

Thích hợp với cây công nghiệp ngắn ngày, rau màu

15.961 Tập trung ở 6 huyện, thị xã ven biển
Tổng 1.112.033

Nguồn: Theo số liệu điều tra của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,

Địa chí Thanh Hóa, tập 1 và có điều chỉnh với số liệu chung

 

2. Tài nguyên khí hậu

Do sự tác động của các nhân tố: vĩ độ địa lý, quy mô lãnh thổ, vị trí trong hệ thống hoàn lưu gió mùa trong á địa ô gió mùa Trung – Ấn, hướng sơn văn, độ cao và vịnh Bắc Bộ mà Thanh Hoá có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm với mùa hè nóng, mưa nhiều có gió Tây khô nóng; mùa đông lạnh ít mưa có sương giá, sương muối lại có gió mùa Đông Bắc theo xu hướng giảm dần từ biển vào đất liền, từ Bắc xuống Nam. Đôi khi có hiện tượng dông, sương mù, sương muối làm ảnh hưởng không nhỏ tới cây trồng nông nghiệp.

Nhiệt độ không khí trung bình năm là 22 – 230C, song phân hóa rất khác nhau theo từng tháng và giữa các vùng. Chênh lệch về cực trị của nhiệt độ trong năm cũng rất lớn: mùa hè, nhiệt độ tối cao có thể đạt tới 410C, song về mùa đông, nhiệt độ có thể hạ thấp xuống dưới 20C ở vùng núi, kèm theo sương giá, sương muối.

Lượng mưa trung bình phổ biến là 1.700mm, song có một số vùng đồi núi, lượng mưa lại rất cao. Ở vùng đồi núi, tốc độ gió tương đối đều trong năm, dao động trung bình từ 1 – 2m/s. Còn ở vùng đồng bằng ven biển, tốc độ gió có thể có sự chênh lệch ở các huyện ven biển vào mùa bão lụt từ tháng 6 đến tháng 11. Do sự chi phối của địa hình và những tương tác với các vùng lân cận mà Thanh Hoá có sự phân dị về khí hậu theo vùng, với 3 vùng khí hậu đặc trưng:

            – Vùng đồng bằng, ven biển: có nền nhiệt độ cao, mùa đông không lạnh lắm, ít xảy ra sương muối, mùa hè nóng vừa phải. Mưa ở mức trung bình và có xu hướng tăng dần từ phía Bắc vào phía Nam. Lượng mưa lớn nhất vào tháng 9 và ít nhất vào các tháng 2, 3. Mưa phùn vào các tháng cuối mùa lạnh (1, 2 và 3), đôi khi kéo dài hàng tuần lễ. Có hai thời kỳ khô ngắn và không ổn định vào đầu hè (tháng 5 và 6) và vào các tháng 10, 11. Từ tháng 7 đến tháng 11, có nhiều cơn bão xuất hiện và có thể gây ảnh hưởng lớn đến các huyện ven biển của tỉnh. Thiên tai thường xảy ra là bão, nước dâng trong bão, mưa lớn gây úng, lụt, lũ tập trung vào tháng 9 hàng năm. Hạn và rét đậm kéo dài vào thời gian từ tháng 12 đến tháng 2. Ngoài ra, lốc, vòi rồng, mưa đá có thể xảy ra ở vùng này với tần suất thấp.

            – Vùng trung du: có nhiệt độ cao vừa phải, mùa đông tương đối lạnh, có sương muối nhưng ít. Mùa hè nóng vừa phải, khu vực phía Nam nóng hơn do ảnh hưởng của gió tây khô nóng. Mưa khá nhiều, đặc biệt ở khu vực Như Xuân, Như Thanh, Lang Chánh, Thường Xuân (trên 2.000 mm/năm), Hồi Xuân (1.870mm/năm). Độ ẩm lớn, gió không mạnh lắm. Thiên tai chủ yếu là mưa lớn, gió tây khô nóng, rét đậm kéo dài, lũ đột ngột, kể cả lũ bùn đá, lũ ống và lũ quét. Lượng mưa cao, có khả năng gây lũ ống, lũ quét vào tháng 7 – tháng 8.

            – Vùng đồi núi cao: bao gồm các huyện Quan Hoá, Quan Sơn, Mường Lát, phần Tây Bá Thước, Yên Khương của Lang Chánh, Yên Nhân, Bát Mọt, Xuân Khao của Thường Xuân. Nền nhiệt độ nói chung thấp, mùa đông khá rét, nhiệt độ thấp nhất có thể dưới 00C, sương muối nhiều và một số nơi có sương giá với tần suất 1 ngày/1 năm. Khi có sương giá, sương muối làm cho một số cây ăn quả có thể bị chết hàng loạt. Vào mùa hè, lũ có thể xuất hiện vào thời gian tháng 7 – 8.

Mùa hè dịu mát, ảnh hưởng của gió tây khô nóng không lớn, biên độ nhiệt năm nhỏ, lượng mưa, số ngày mưa, mùa mưa khác biệt khá nhiều theo các tiểu vùng. Mùa đông ít mưa. Độ ẩm không lớn lắm (trừ khu vực cao trên 800m mới có độ ẩm lớn và mây mù nhiều). Gió nói chung yếu, tốc độ trung bình từ 1,3 – 2m/s.

Lượng mưa lớn, nhiệt độ cao, ánh sáng dồi dào là các điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông lâm ngư nghiệp. Với chế độ nhiệt ẩm như vậy, đồng thời do sự phân dị phức tạp về địa hình mà Thanh Hoá có nhiều vùng có chế độ vi khí hậu khác nhau, tạo điều kiện phát triển các cây trồng nhiệt đới và cả các cây trồng á nhiệt đới, tạo nên sự đa dạng của hệ thống cây trồng. Tuy nhiên, cũng như các tỉnh vùng núi phía Bắc có mùa đông lạnh, khí hậu vùng núi Thanh Hoá cũng thường xuất hiện các hiện tượng thời tiết đặc biệt như sương muối, sương giá vào mùa đông, bão, lụt, áp thấp nhiệt đới về mùa mưa và hạn hán về mùa khô, ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất nông nghiệp và đời sống con người. Vì vậy, việc lựa chọn cây trồng thích hợp với từng tiểu vùng khí hậu là điều cần thiết.

3. Tài nguyên nước và mạng lưới sông ngòi

3.1. Tài nguyên nước

Tài nguyên nước của Thanh Hoá khá phong phú. Tổng lượng nước mưa rơi xuống lãnh thổ hàng năm là 19 tỷ mét khối, lượng bốc hơi trung bình là 9 tỷ mét khối, còn lại 9,7 tỷ mét khối nước sinh ra dòng chảy mặt và 0,3 tỷ mét khối sinh ra dòng chảy ngầm. Hàng năm hệ thống sông đổ ra biển 20 tỷ mét khối nước, trong đó có 9,7 tỷ mét khối nước sinh ra trên lãnh thổ Thanh Hoá còn lại là nước sinh ra ở Tây Bắc và Lào.

Modul dòng chảy mặt trung bình 20,4 – 38 lít/s/km2. Vùng đồng bằng biến thiên từ 20 – 30 lít/s/km2, ở miền đồi núi trên 30 lít/s/km2, lớn nhất là tại lưu vực sông Âm: 38 lít/s/km2. Chất lượng nước mặt khá tốt, trừ vùng hạ lưu vào mùa kiệt do chịu ảnh hưởng của thuỷ triều.

Modul dòng chảy ngầm biến thiên từ 2 lít/s/km2 đến 20 lít/s/km2. Khu vực trung lưu sông Mã có modul dòng ngầm trên 20 lít/s/km2. Nhìn chung, chất lượng nước ngầm tốt, trừ một số khu vực ngoại vi thành phố Thanh Hoá, thị xã Sầm Sơn, nước ở tầng mặt đã bị ô nhiễm. Các khu vực cửa sông, ven biển nước ngầm bị nhiễm mặn.

            – Nước ngầm: Ở Thanh Hoá, nước ngầm khá phong phú cả về trữ lượng và chủng loại bởi chúng xuất hiện ở đầy đủ các loại đất đá: trầm tích, biến chất, macma và phun trào. Thanh Hoá có các loại hình nước dưới đất như sau:

* Nước lỗ hổng: Tồn tại trong các thành vách núi, được tạo bởi nguồn gốc trầm tích biển, sông biển tuổi holoxen (tầng QIV), phân bố ở các địa hình đồng bằng bằng phẳng, độ cao tuyệt đối từ 7 đến 15 mét, nằm ở độ sâu từ 0 đến 35 mét. Ngoài ra, còn có nước lỗ hổng trong các thành tạo trầm tích có nguồn gốc sông lũ tuổi pleixtoxen (tầng QI-III), tầng này nằm ở dưới hoặc chỉ lộ ra ở một số vùng chân núi. Cả hai tầng chứa nước này đều có khả năng chứa nước kém, với tỷ lưu lượng từ 0,2 đến 11 lít/s.m, có quan hệ thuỷ lực với nước mặt. Độ tổng khoáng hoá dao động từ 0,1-5g/lít, nhiều nơi, tầng nước này bị nhiễm mặn. Vì vậy, khả năng khai thác chỉ đáp ứng các nhu cầu nhỏ trong sinh hoạt và sản xuất.

* Nước khe nứt: Tồn tại trong các đá cứng nứt nẻ có thành phần khác nhau, phân bố ở các khu vực đồi núi. Nước có chất lượng tốt với độ tổng khoáng hoá < 1mg/lít, song phân bố rất phức tạp phụ thuộc vào cấu trúc địa chất của từng vùng. Hiện nay, việc khảo sát thăm dò các khu vực này còn rất hạn chế.

3.2. Mạng lưới sông suối

            – Các hệ thống sông chính: Thanh Hoá có 5 hệ thống sông chính là sông Hoạt, sông Mã, sông Yên, sông Lạch Bạng và sông Chàng.

Sông Hoạt: Sông bắt nguồn từ núi Hang Cửa, vùng Yên Thịnh (Hà Trung) có diện tích lưu vực tính đến cầu Chính Đại (cách cửa sông 13km) là 250km2. Sông dài 55km, chảy qua huyện Hà Trung, thị xã Bỉm Sơn và men theo tạo địa giới giữa huyện Nga Sơn và huyện Kim Sơn (Ninh Bình). Do vị trí của sông nằm trong khu vực ít mưa (dưới 1.500mm), lại chảy qua nhiều vùng đá vôi nên dòng chảy mùa kiệt rất nghèo nàn và bị ảnh hưởng mạnh của thuỷ triều. Vào mùa mưa, do địa hình lòng chảo nên sông tiêu nước chậm và thường xuyên gây úng lũ ở Hà Trung (Hà Bắc, Hà Yên, Hà Giang, Hà Vân) và Nga Sơn.

+ Sông Mã: Đây là hệ thống sông lớn nhất tỉnh. Dòng chính dài 528km, bắt nguồn từ độ cao 800 – 1.000m ở vùng Điện Biên Phủ, sau đó chảy qua Lào (118km) và vào Thanh Hoá ở phía Bắc bản Sóp Sim (Mường Lát). Chiều dài sông Mã ở địa phận Việt Nam là 410km, riêng tỉnh Thanh Hoá 242km. Toàn bộ diện tích lưu vực là 28.106km2, trong đó phần bên nước bạn Lào là 7.913km2, phần Việt Nam là 20.193km2, riêng Thanh Hoá gần 9.000km2. Sông Mã có 89 phụ lưu, các phụ lưu chính trên đất Thanh Hoá gồm suối Sim (40km), suối Quanh (41km), suối Xia (22,5km), sông Luồng (102km), sông Lò (74,5km), Hón Nủa (25km), sông Bưởi (130km), sông Cầu Chày (87,5km), sông Chu (325km). Hệ thống sông Mã có thể cho công suất lý thuyết là 1.890.020Kw, với sản lượng điện là 12,07 tỷ Kw/h. Bình quân trên 1km chiều dài, sông Mã cho 3.578Kw. Hiện đã xây dựng trên hệ thống sông Mã nhà máy thuỷ điện Cửa Đạt có công suất lắp máy 140Mw.

Sông Yên. Bắt nguồn từ xã Bình Lương (Như Xuân), ở độ cao 100 – 125m, chảy xuống đồng bằng Nông Cống, Quảng Xương và đổ ra biển ở lạch Ghép. Sông dài 94,2km, trong đó gần 50km ở miền đồi núi. Diện tích lưu vực là 1.996km2. Sông Yên có 4 sông nhánh là sông Nhơm (66,9km), sông Hoàng (81km), sông Lý (27,5km) và sông Thị Long (50,4km).

Sông Lạch Bạng bắt nguồn từ vùng núi Huôn, xã Phú Lâm (Tĩnh Gia), ở độ cao 100m, chảy qua vùng núi Tĩnh Gia, tới Khoa Trường bắt đầu xuống đồng bằng và đổ ra biển ở cửa Bạng. Sông dài 34,5km, trong đó 18km ở vùng núi. Diện tích lưu vực là 236km2.

Sông Chàng. Đây là con sông duy nhất ở tỉnh đổ ra tỉnh khác (Nghệ An). Sông Chàng là một nhánh của sông Hiếu (Nghệ An). Diện tích lưu vực sông ở đoạn Thanh Hoá khoảng 250km2.

Ngoài các sông tự nhiên trên đây, Thanh Hoá còn có một hệ thống các sông và kênh, mương nhân tạo. Thời phong kiến có hệ thống kênh đào nhà Lê. Thời hiện đại có hệ thống kênh của công trình thuỷ lợi đập Bái Thượng, các công trình thuỷ lợi Bắc sông Mã, Nam sông Mã, sông Quảng Châu, v.v…

4. Tài nguyên sinh vật

4.1. Thực vật: Do nằm ở vị trí trung gian giữa các hệ thực vật Himalaya, Hoa Nam, Ấn Độ – Myanmar, Malaysia – Indonesia và sự tác động của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa trên nền thổ nhưỡng và địa hình khác nhau, Thanh Hoá có hệ thực vật rất phong phú. Rừng Thanh Hoá tập trung một số loại thảm thực vật tiêu biểu sau:

            – Rừng nhiệt đới ở đai thấp: Các loại rừng này phân bố ở độ cao thường dưới 500m và chiếm diện tích lớn nhất tỉnh. Thành phần loài trong thảm thực vật rất phong phú, các loại cây gỗ chiếm ưu thế là các cây thuộc họ đậu, họ dầu, họ xoan, họ bồ hòn, v.v.. Ở đai thấp, hầu như không có cây hạt trần.

            – Rừng cận nhiệt đới trên núi: Loại rừng phân bố ở độ cao từ 500m tới 1.600m (còn gọi là rừng nhiệt đới trên núi thấp).

            – Rừng trồng: Rừng trồng ở Thanh Hoá đã được chú trọng phát triển từ lâu.

Rừng Thanh Hoá chủ yếu là rừng lá rộng, thường xanh, có hệ thực vật phong phú, đa dạng về họ, loài… Gỗ quý hiếm có lát, pơ mu, trầm hương. Gỗ nhóm II có sa mu, lim xanh, táu, sến. Gỗ nhóm III, IV có vàng tâm, dổi, de, chò chỉ… Các loại thuộc họ tre, nứa có luồng, nứa, vầu, giang, bương, tre. Ngoài ra, còn có mây, song, dược liệu, cánh kiến đỏ…

            – Hệ thống rừng đặc dụng: Theo tiêu chuẩn quốc gia, Thanh Hóa có một số rừng đặc dụng như: Vườn quốc gia Bến En (rộng 16.000ha ở các huyện Như Xuân, Như Thanh), vườn quốc gia Cúc Phương (phần thuộc tỉnh Thanh Hóa gồm các xã Thạch Lâm và Thành Mỹ, huyện Thạch Thành), Khu bảo tồn cây gỗ sến rộng 300ha ở xã Tam Quy, huyện Hà Trung. Khu bảo tồn Pù Luông, Xuân Nha. Ngoài ra, có các khu bảo tồn gen gắn với di tích lịch sử – văn hóa như: khu Lam Kinh (bảo tồn rừng Lim), khu đền Bà Triệu với rừng thông nhựa (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc), khu vườn rừng Hàm Rồng, khu vườn thực vật thị xã Sầm Sơn.

4.2. Động vật: Những kết quả điều tra cho thấy ở Thanh Hoá hệ động vật rừng rất phong phú và đa dạng, bao gồm cả động vật trên cạn lẫn động vật dưới nước, cả động vật bản địa lẫn động vật di cư đến, cả động vật tự nhiên lẫn động vật do con người tạo ra, v.v.. Thanh Hoá có một số dạng quần cư động vật chính như: quần cư động vật đồng ruộng đồng bằng và đồi thấp; quần cư động vật ở rừng tre, nứa, vầu, giang; quần cư động vật ở rừng cây bụi, trảng cỏ; quần cư động vật ở rừng gỗ và trảng cây; quần cư động vật nước ngọt…

Thanh Hoá có nhiều loài động vật đã được ghi vào sách Đỏ, bao gồm:

– Các loài đang bị tiêu diệt như: nhóm thú voọc mông trắng, voọc vá, voọc đen tuyền, vượn đen bạc má, gấu đen, gấu ngựa, báo mai hoa, hổ, voi, hươu sao, bò tót, sơn dương, trâu rừng; nhóm chim có trĩ, gà lôi; nhóm bò sát, lưỡng cư có rắn hổ mang chúa.

– Các loài sắp bị tiêu diệt: nhóm thú cu li nhỏ, khỉ mặt đỏ, khỉ mốc, khỉ đuôi lợn, voọc xám, báo lửa, báo gấm, cheo cheo nam dương, tê tê, sóc bay; về chim có cò chìa, hồng hoàng; về bò sát lưỡng cư có kỳ đà nước, thằn lằn, rắn hổ trâu, rùa híp, rùa núi vàng, giải. Nhóm động vật không xương sống có trai cóc hình tai, cà cuống; về thú có cầy mực, dơi thuỳ frit, sóc bay lông tai; về chim có bồ nông chân xám, choắt chân vàng lớn, mòng biển mỏ đen; về động vật không xương sống có cua Kim Bôi, cua Cúc Phương. Một số loài khác như tắc kè, rắn cạp nong, rắn hổ mang cũng có nhiều song cũng đang bị săn bắt quá mức nên số lượng suy giảm nhanh chóng…

5. Tài nguyên khoáng sản

Tài nguyên Khoáng sản Thanh Hóa

Thanh Hoá là một trong số ít các tỉnh ở nước ta có nguồn tài nguyên khoáng sản rất phong phú và đa dạng, có những tiền đề địa chất khá thuận lợi cho các quá trình tạo khoáng. Kết quả điều tra đến nay cũng đã cho thấy lãnh thổ Thanh Hoá có nhiều loại hình khoáng sản khác nhau, bao gồm:

– Kim loại sắt và hợp kim sắt: Có quặng sắt, sắt – mangan và sa khoáng. Các mỏ quan trọng là Thanh Kỳ (Như Xuân, trữ lượng 2,5 triệu tấn), Tam Quy (Hà Trung, trữ lượng gần 200.000 tấn), Làng Sam (Ngọc Lặc, trữ lượng ước 600.000 tấn), mỏ sắt – mangan Cổ Định trữ lượng ước trên 9 triệu tấn; quặng inmenit có ở bờ biển Sầm Sơn – Quảng Xương trữ lượng 73.500 tấn; quặng crômit dạng sa khoáng ở Cổ Định (Triệu Sơn) trữ lượng khoảng 18,6 triệu tấn đã được phát hiện và khai thác từ thời Pháp và crômit dạng gốc ở Làng Mun (Ngọc Lặc) trữ lượng có khả năng lớn song chưa xác định. Cromit là loại khoáng sản đặc biệt mà ở Việt Nam thì chỉ riêng Thanh Hoá mới có. Với trữ lượng khai thác hàng năm hiện nay của mỏ chỉ trên 10.000 tấn thì tiềm năng, khả năng phát triển công nghiệp liên quan đến khai thác và chế biến crômit ở Thanh Hoá còn rất nhiều hứa hẹn.

– Kim loại màu và kim loại hiếm: Đã phát hiện thấy 7 mỏ và điểm quặng chì – kẽm, trong đó mỏ Quan Sơn (Tân Trường, huyện Tĩnh Gia) trữ lượng ước tính 121.000 tấn; antimoan có 6 mỏ và điểm quặng phân bố ở Bá Thước, Cẩm Thuỷ, Quan Hoá với trữ lượng phát hiện được là không lớn, song cần điều tra thêm; niken – coban có lẫn trong quặng crômit Cổ Định, trữ lượng khoảng 137.840 tấn niken và 27.570 tấn coban; quặng đồng có ở Lương Sơn (Thường Xuân), nhưng trữ lượng nhỏ; đồng, thiếc và thiếc – vonfram có trữ lượng nhỏ và phân bố ở Thường Xuân (các mỏ Bù Me, làng Tôm và đồi Tròn). Ngoài ra, còn các quặng molipđen, thuỷ ngân ở rải rác nhiều nơi nhưng trữ lượng nhỏ. Riêng quặng vàng, đã phát hiện thấy nhiều mỏ và điểm khoáng sản vàng ở nhiều nơi thuộc Như Xuân, Thường Xuân, Ngọc Lặc, Quan Hoá, Thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Bá Thước. Đó là các loại khoáng hoá vàng hoặc vàng gốc thuộc thành hệ thạch anh – vàng – sunfua, đa kim, tồn tại trong các đới dập vỡ, thành mạch riêng của các đá phun trào axit hoặc trong đá vôi. Nhiều điểm mỏ đã được điều tra kỹ như mỏ Ban Công ở Bá Thước trữ lượng cấp C1 đạt 321kg, mỏ Cẩm Quỳ (Cẩm Thủy) trữ lượng cấp C1 đạt 263kg, mỏ Làng Bẹt (Cẩm Thuỷ) trữ lượng cấp C1 đạt 150kg. Ngoài  ra, còn rất nhiều mỏ khác như vàng gốc Cẩm Tân (Cẩm Thủy), vàng gốc làng Nèo, Ban Công (Bá Thước), Eo Khanh, Thạch Cẩm (Thạch Thành), Xuân Chính, Xuân Thắng (Thường Xuân), Thanh Quân (Như Xuân), vàng sa khoáng còn có ở nhiều nơi thuộc huyện Như Xuân, Thường Xuân, Bá Thước, Thạch Thành, Cẩm Thủy.

– Nguyên liệu hoá chất – phân bón: Có secpentin phân bố ở khu vực núi Nưa, là nguồn nguyên liệu quý cho sản xuất phân lân, với trữ lượng 15 triệu tấn và hiện đang khai thác tại bãi Áng (Nông Cống); quặng photphorit có ở Cao Thịnh (Ngọc Lặc) có trữ lượng 74.698 tấn, Hàm Rồng (thành phố Thanh Hoá) có trữ lượng 24.500 tấn, Cao Thịnh – Yên Lâm có trữ lượng 125.000 tấn; quặng đôlômit ở núi Long (thành phố Thanh Hoá) có trữ lượng 4,7 triệu tấn và đồng Vựa (Nga An, huyện Nga Sơn), có trữ lượng 1 triệu tấn. Ngoài ra, photphorit còn có ở nhiều nơi khác trong tỉnh như ở huyện Thường Xuân, Thọ Xuân, Cẩm Thuỷ, Hà Trung. Đôlômit cũng rất phong phú ở Ngọc Long (thành phố Thanh Hoá), Nhân Sơn (huyện Nga Sơn), đây là nguyên liệu trợ dụng cho sản xuất thép, thuỷ tinh ở lò cao. Pyrit cũng có ở nhiều nơi trong tỉnh, là nguyên liệu tốt cho việc sản xuất một số loại hoá chất, hoặc barit là vật liệu cần thiết cho một số ngành sản xuất (như khoan dầu khí, chế tạo cao su…) song trữ lượng còn chưa được đánh giá cụ thể.

– Nguyên liệu cho sản xuất sành, sứ, thuỷ tinh và vật liệu xây dựng: Có cao lanh với tổng trữ lượng ước tính 5 triệu tấn và phân bố ở bến Đìn, làng Cày (Thường Xuân), làng En (Lang Chánh), Kỳ Tân (Bá Thước), Quyền Cây (Bỉm Sơn); sét trắng có trữ lượng nhỏ và phân bố ở núi Bợm (Tĩnh Gia), Tập Cát (Minh Thọ, Nông Cống); quặng macsalit ở Đồng Khang (Triệu Sơn) khoảng 4,3 triệu tấn, Các Sơn (Tĩnh Gia), Mỹ Tân (Ngọc Lặc); quặng fenspat có ở núi Trường Lệ (Sầm Sơn) và núi Hoằng Trường (Hoằng Hoá); cát thuỷ tinh có trữ lượng hàng chục triệu tấn và phân bố ở Tĩnh Gia; đá, cát, sỏi, sét xây dựng có trữ lượng rất lớn và phân bố khá rộng rãi ở nhiều vùng; quặng puzơlan ở Thăng Long (Nông Cống), trữ lượng 4,7 triệu tấn; cát kết chịu lửa ở núi Bợm (Tĩnh Gia); đá hoa có ở nhiều nơi, đáng chú ý là đá hoa khe Cang, Na Mèo (huyện Quan Sơn), Trung Sơn (huyện Quan Hoá), Định Thành (Yên Định), Yên Duyên (Bỉm Sơn), núi Vức (Đông Sơn); đá vôi làm xi măng trữ lượng trên 370 triệu tấn, chất lượng tốt và phân bố khá rộng rãi.

             – Nhiên liệu: Than bùn có ở tất cả các huyện với tổng trữ lượng 3 triệu tấn; than đá có trữ lượng nhỏ và phân bố ở Cẩm Yên, Cẩm Ngọc, Cẩm Phú, Phúc Mỹ (Cẩm Thuỷ), Tuy Hoá (Đông Sơn), Hà Long (Hà Trung), v.v..

Ngoài ra, Thanh Hoá còn một số loại khoáng sản khác: thạch anh tinh thể ở Thường Xuân; đá quý như topa, canxedoan, berin ở Thường Xuân; graphit ở Quan Hoá; nước khoáng ở một số điểm thuộc các huyện Thường Xuân, Bá Thước, Lang Chánh và Quan Hoá.

6. Tài nguyên biển và ven biển

Bản đồ tài nguyên biển Thanh Hóa

Vùng biển Thanh Hoá có diện tích 17.000 – 18.000km2, gấp 1,6 lần diện tích đất liền. Đường bờ biển có dạng cánh cung dài 102km. Bờ biển tương đối phẳng, nhưng bị chia cắt bởi 7 cửa lạch. Các cửa sông đều là những khu vực tự nhiên rất nhạy cảm và có năng suất sinh học cao. Từ Nam Sầm Sơn đến Quảng Xương có inmenhit, trữ lượng 73.500 tấn. Đây là loại nguyên liệu quan trọng để sản xuất que hàn, men sứ. Bờ biển Tĩnh Gia có trữ lượng lớn cát trắng để sản xuất thuỷ tinh. Các bãi triều rộng ở Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Xương… là nơi nuôi trồng thuỷ sản. Ven bờ cũng có nhiều đồng muối ở Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Xương, Tĩnh Gia.

Ven biển Thanh Hoá có đảo hòn Nẹ cao, đảo hòn Mê, cụm đảo Nghi Sơn và hàng loạt đảo nhỏ như: hòn Đót, hòn Miệng, hòn Vạt, hòn Góc, v.v.. Diện tích đảo của tỉnh khoảng 800ha. Về mặt tài nguyên và môi trường, có thể xây dựng các khu bảo tồn biển xung quanh các đảo nhằm bảo vệ sự đa dạng sinh học biển đồng thời cũng là cơ sở cho hoạt động du lịch. Với vị trí của mình các đảo này có vai trò tiền tiêu trong việc bảo vệ đất liền song các đảo này cũng chính là điểm tựa để phát triển kinh tế hướng ra biển.

Dải ven bờ biển Thanh Hoá có diện tích bãi triều trên 8.000ha (chưa tính bãi triều 2 huyện Nga Sơn và Hậu Lộc mỗi năm bồi tăng thêm từ 10 – 50m) là nguồn tài nguyên lớn về nuôi trồng thuỷ sản nước lợ như tôm sú, tôm he, cua và rong câu… Diện tích nước mặn khoảng trên 5.000ha, phân bố chủ yếu ở vùng đảo Mê, Biện Sơn có thể nuôi cá song, cá cam, trai ngọc, tôm hùm dưới hình thức nuôi lồng bè. Ngoài ra với hàng ngàn hecta vùng nước mặn ven bờ, thuận lợi nuôi nhuyễn thể hai mảnh vỏ như ngao, sò, ngán… Đặc biệt là với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, khu kinh tế Nghi Sơn đã và đang được xây dựng (theo Quyết định 102/2006 của Thủ tướng Chính phủ) với nhiều hạng mục công trình lớn như: cảng nước sâu, nhà máy xi măng, sân bay… sẽ mở ra nhiều hướng phát triển mới cho dải ven biển nói riêng cũng như cho cả tỉnh nói chung.

B. Đặc điểm dân cư và kết cấu hạ tầng kỹ thuật:

100%

I. ĐẶC ĐIỂM DÂN CƯ.

1. Dân số và mật độ dân cư.

Theo Niên giám Thống kê Thanh Hóa năm 2014, tỉnh Thanh Hoá có 3.496.600 người, là tỉnh có số dân đông thứ ba trong cả nước (sau thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Hà Nội) và là tỉnh đông dân nhất so với sáu tỉnh Bắc Trung Bộ. Thanh Hoá là tỉnh có nhiều đơn vị hành chính nhất cả nước với 27 đơn vị hành chính cấp huyện và tương đương, có 579 xã, 30 phường, 28 thị trấn và 6.031 thôn, xóm, bản làng; trong đó có 184 xã miền núi và 12 thị trấn miền núi (số liệu năm 2014). Tỉnh có 6 huyện, thị xã thuộc vùng ven biển, 11 huyện thuộc vùng núi và 10 huyện, thị xã, thành phố thuộc vùng đồng bằng.

Đặc điểm hành chính thể hiện tiềm năng to lớn về mặt xã hội của tỉnh, song cũng có không ít khó khăn, phức tạp cho việc quản lý kinh tế – xã hội trên địa bàn.

Dân cư phân bố không đồng đều theo các đơn vị hành chính và phân bố không đều giữa đồng bằng và miền đồi núi. Dân cư chủ yếu tập trung đông ở thành phố, thị xã, thị trấn ven biển, ven sông và thưa thớt ở các vùng núi. Theo Niên giám Thống kê năm 2014 Thanh Hóa, tỉnh ta có mật độ dân số là 314 người/km2. Riêng thành phố Thanh Hoá có mật độ là 2.384 người/km2, các huyện Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Xương có mật độ trên 1.100 người/km2. Trong khi đó tại các huyện miền núi như Mường Lát, Quan Sơn, Quan Hoá có mật độ thấp, chỉ từ 39 người đến 46 người/km2. Những nguyên nhân chính của sự phân bố dân cư chênh lệch trên đây phải kể đến sự phân bố không đều của tài nguyên thiên nhiên, hệ thống các cơ sở kinh tế – xã hội, hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống và cả lịch sử cư trú. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2014 ước tính 0,53%. Thanh Hóa là tỉnh có dân số trẻ, số người từ 15 tuổi trở lên chiếm 2.209,5 người (năm 2014). So với mức trung bình của vùng Bắc Trung Bộ và của toàn quốc thì tỷ lệ số dân là nữ giới chiếm cao hơn nam giới (51,05% nữ và 49,85% nam). Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cũng cao hơn so với vùng Bắc Trung Bộ.

Là tỉnh có nhiều thành phần dân tộc, trong đó người Kinh chiếm tỷ lệ lớn nhất (84,4%), người Mường (8,7%), người Thái (6%). Các dân tộc thiểu số khác như Mông, Dao, Tày, Sán Dìu, Hoa, Cao Lan, Thổ… chiếm tỷ lệ không đáng kể (gần 1%). Tính đa dạng về thành phần dân tộc là lợi thế cho sự phát triển văn hóa, du lịch song cũng là những khó khăn cho sự phát triển đồng đều giữa các vùng miền trong tỉnh.

Do dân số tăng nhanh trong các thập kỷ trước, nên hàng năm Thanh Hoá vẫn có thêm gần ba vạn người bước vào tuổi lao động. Đây là một vấn đề lớn của xã hội và để giải quyết việc làm cho người lao động, cần phải có sự chuyển dịch nhanh và đa dạng hoá cơ cấu nền kinh tế. Năm 2010, nguồn lao động của Thanh Hoá có 2.116,4 người; năm 2011 là 2.152,0 người, trong đó người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động chiếm 97,7% và người ngoài độ tuổi lao động thực tế có tham gia lao động chiếm 2,3%. Đến năm 2014, số người trong độ tuổi lao động của Thanh Hóa là 2.209,5 người. Việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đặc biệt là khu vực kinh kế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm thị phần ngày càng cao tại Thanh Hóa đã phần nào giảm được lực lượng lao động làm việc trong khu vực kinh tế nhà nước và lực lượng lao động nông nghiệp khu vực nông thôn, tăng nguồn lao động làm việc trong các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.

Sự chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh diễn ra với tốc độ chậm; tỷ lệ lao động trong khu vực kinh tế truyền thống (nông, lâm, ngư nghiệp) vẫn rất lớn (71,83%). Trong nông nghiệp phần lớn lao động tập trung trong ngành trồng trọt. Số lao động tham gia ngành chăn nuôi và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp rất ít. Cơ cấu lao động này đang cản trở quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá lãnh thổ. So sánh với cả nước và trên thế giới thì tỷ lệ lao động của khu vực nông, lâm, ngư đang giảm nhanh và chiếm tỷ lệ thấp, tỷ lệ lao động làm trong khu vực công nghiệp, xây dựng giảm và tỷ lệ lao động làm trong khu vực dịch vụ tăng lên…

Cũng theo Niên giám Thống kê Thanh Hóa năm 2014; tính bình quân, số người đang làm việc trong các ngành kinh tế ở Thanh Hoá luôn chiếm trên 80%, khá cao so với cả nước. Tỷ lệ này đang tăng lên một cách chậm chạp (từ 2.074,1 người năm 2010 lên đến 2.161,6 người năm 2014), song vẫn phản ánh tốc độ đột phá trong kinh tế còn chậm. Điều đó cũng bị ảnh hưởng một phần bởi chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh ta còn hạn chê; nếu năm 2010 toàn tỉnh chỉ có 16,2% nguồn lực lao động đã qua đào tạo thì đến năm 2014, chỉ số này chỉ tăng lên là 18,9%. Trong khi đó, số người trong độ tuổi lao động không có việc làm tăng từ 2,00% năm 2010 lên 2,14% năm 2012 trong tổng số nguồn lực lao động Thanh Hóa. Đến năm 2014, nhờ một số thay đổi lớn trong cải cách thủ tục hành chính đã đẩy mạnh việc thu hút đầu tư, nhiều nhà máy, xí nghiệp được đầu tư xây dựng đã giải quyết được một số lượng lớn nguồn lao động dư thừa của địa phương; nhờ đó tỷ lệ người lao động thất nghiệp của Thanh Hóa lại giảm xuống còn 2,00% trong tổng số lực lượng lao động. Số người ngoài độ tuổi lao động thực tế có tham gia lao động cũng giảm xuống.

Tuy nhiên, tình trạng đó vẫn là một thách thức lớn đặt ra với việc giải quyết việc làm cho người lao động, song cũng thể hiện tiềm năng sức lao động của tỉnh là còn khá lớn. Nếu biết huy động được mọi khả năng về nguồn lao động một cách phù hợp thì sẽ tạo nên những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế, xã hội.

Về mức thu nhập, năm 1995, GDP bình quân đầu người chỉ 212 USD, năm 2000 chỉ 293 USD và năm 2001 là 319 USD, đến năm 2005 đạt 430 USD (so với bình quân cả nước là 543 USD), tốc độ tăng đạt 8,5% (cả nước là 7,6%). Sự phân bố giàu nghèo cũng rất không đồng đều giữa các vùng, trong đó, các huyện vùng ven biển như Nga Sơn, Hậu Lộc và đặc biệt là các huyện vùng núi phía Tây thì tỷ lệ hộ nghèo còn chiếm rất cao (Ngọc Lặc: 21,8%, Mường Lát: 25,8%), đây là vấn đề bức xúc và khó khăn cần giải quyết trong kế hoạch phát triển kinh tế của tỉnh. Tính đến năm 2005, tổng sản phẩm theo giá so sánh trên địa bàn của tỉnh đạt 11.910 tỷ đồng, tăng bình quân năm thời kỳ 2001 – 2005 là 9,1%. Cơ cấu GDP của Thanh Hóa là: nông lâm nghiệp, thủy sản 31,6%, công nghiệp và xây dựng 35,1%, các ngành dịch vụ 33,3% (tỷ lệ này so với cả nước là: 21,8%, 40,1% và 38,1%). Giá trị xuất khẩu bình quân đầu người năm 2005 mới đạt 28,6 USD (cả nước là 323 USD). Tỷ lệ này cho thấy tốc độ công nghiệp hóa và các ngành dịch vụ, xuất khẩu còn phát triển ở mức thấp.

Sau nhiều đổi mới, cải cách trong thủ tục hành chính cũng như kêu gọi đầu tư; đến năm 2014, tình hình kinh tế – xã hội của tỉnh đã có bước tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GDP) năm 2014 theo giá so sánh năm 1994 tăng 11,6% so với năm 2013 (năm 2013 tăng 11,2%); trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4,8%; khu vực công nghiệp, xây dựng tăng 13,5%; khu vực dịch vụ tăng 12,0%. Trong 11,6% tăng trưởng của năm 2014; ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,8%; ngành công nghiệp, xây dựng 6,8%; các ngành dịch vụ 4,0%. Cơ cấu GDP chuyển dịch theo hướng tăng dần khu vực II (công nghiệp, xây dựng) từ 40,0% lên 40,9%, khu vực III (các ngành dịch vụ) giữ như năm 2013 là 40,3%; giảm khu vực I (nông, lâm nghiệp, thuỷ sản) từ 19,7% xuống còn 18,8%. Tổng sản phẩm trên địa bàn theo giá hiện hành bình quân đầu người năm 2014 ước đạt 28,9 triệu đồng, nếu tính theo USD đạt 1.365 USD. Nhờ những kết quả tích cực đó, tỷ lệ hộ nghèo trong những năm qua của Thanh Hóa đã giảm xuống một cách rõ rệt; nếu như năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh chiếm 24,86% thì đến năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh giảm xuống còn 9,90%.

Về chất lượng môi trường sống, đến nay đã được cải thiện nhiều ở quy mô rộng trong toàn tỉnh, song còn ở mức trung bình. Số liệu thống kê tới năm 2014, cho thấy số lượng bác sĩ bình quân cho 1 vạn dân là 7,30 người; số giường bệnh tính bình quân trên 1 vạn dân là 21,15 giường; tỷ lệ trạm y tế cấp xã, phường, thị trấn có bác sỹ chiếm 71,43%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng năm 2005 là 32,3%, đến 2014 đã giảm xuống còn 18,20%. Bước đầu Thanh Hóa đã thực hiện được chữa bệnh miễn phí cho người nghèo và cho trẻ em dưới 6 tuổi. Tỷ lệ sử dụng thuê bao điện thoại, tăng một cách chóng mặt; nếu như năm 2005, tỷ lệ máy điện thoại cho 1.000 dân là 42 (bình quân cả nước là 121) thì đến năm 2010 phải tính bằng đơn vị số người sử dụng thuê bao di động là 1.905,3 người và đến năm 2014 thì tỷ lệ này đã lên đến 2.750,4 người. Tỷ lệ người dân được dùng điện sinh hoạt là 99,2% (2010) đến nay đã đạt 100%. Các cơ sở phúc lợi xã hội như nhà văn hoá, trạm y tế đã được đầu tư, nâng cấp. 56,5% phòng học đã được kiên cố hóa với tốc độ phát triển nhanh, mỗi năm tăng thêm 6%. Truyền hình đã phủ kín 100% các làng bản vùng sâu, vùng xa trên địa bàn toàn tỉnh, nâng tổng số giờ phát sóng lên đến 4.298 giờ trong năm 2014, với đa dạng bằng nhiều thứ tiếng, trong đó có cả tiếng dân tộc và tiếng nước ngoài. Tỷ lệ các phường, xã có nhà văn hoá, có bưu điện đạt 100%; khoảng 87% số hộ gia đình có đời sống vật chất tinh thần nâng lên nhiều so với trước. Toàn tỉnh đã có 76,0% (2014) hộ dân cư từ cấp thôn, bản, xã, phường trở lên đạt chuẩn văn hóa. Các hoạt động xây dựng đời sống văn hóa, hoạt động thể thao, dân số kế hoạch hóa gia đình đã luôn được chú trọng, góp phần làm nâng cao chất lượng sống của người dân.

Để đáp ứng nhu cầu về nguồn lao động, Thanh Hóa đã có sự chú trọng trong việc đào tạo nguồn lao động. Đến năm 2015, hệ thống đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh đã phát triển khá mạnh mẽ, bao gồm 2 trường Đại học, 1 Phân viện Đại học, 1 cơ sở Đại học của trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, 1 trường Dự bị Đại học Dân tộc, 1 trường Chính trị, 11 trường Cao đẳng (gồm: Cao đẳng thực hành FPT Polytechnic, Cao đẳng Y tế Thanh Hóa, Cao đẳng Thể dục thể thao Thanh Hóa, Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường Miền Trung, Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Công thương, Cao đẳng Nông Lâm Thanh Hóa, Cao đẳng nghề Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Hóa, Cao đẳng nghề Lilama 1, Cao đẳng nghề Công nghiệp Thanh Hóa, Cao đẳng nghề Lam Kinh, Cao đẳng nghề An Nhất Vinh) và nhiều hệ thống trường Trung cấp hệ trung ương, địa phương, trường dạy nghề; các trung tâm dạy nghề, trung tâm dịch vụ việc làm, trung tâm khuyến nông – khuyến ngư; các trung tâm giáo dục thường xuyên – dạy nghề cấp tỉnh, cấp huyện, các cơ sở dạy nghề khác và gần 1000 trung tâm học tập cộng đồng ở các xã, phường, thị trấn. Kết quả đào tạo đã từng bước tiếp cận với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và tiến bộ khoa học kỹ thuật, dần nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực.

2. Các dân tộc thiểu số ở Thanh Hóa.

2.1. Dân tộc Thái.

– Nguồn gốc và sự hình thành dân cư:

Thế kỷ thứ XI, sách “Đại Việt sử ký toàn thư” mới chép về một cộng đồng Thái tộc. Đó là một cộng đồng người gọi là Ngưu Hống, họ có chữ viết như chữ của người Ai Lao, một cư dân thuộc ngôn ngữ Tày – Thái. Bộ tộc này được xem như là tổ tiên của người Thái hiện nay. Đời vua Lê Thái Tổ (1418 – 1433) ở miền Tây Bắc Việt Nam đã có 15 – 16 đời tù trưởng (tính đến đời tù trưởng Đèo Cát Hãn) Thái trị vì – họ từ miền Bắc Hà di cư xuống đây tập trung và đông nhất là mường Then (vùng đất Điện Biên Phủ ngày nay). Xưa kia vùng đất mường Then có lẽ rộng hơn mường Tè (Lai Châu) đến sông Mã (Sơn La) và một phần tỉnh Phông Sa Lỳ nước Lào nữa. Mường Then có nghĩa là mường Trời, hầu hết dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt Nam, ở Lào và Thái Lan đều nhận mường Then là đất tổ của mình.

Dựa vào kho tàng truyện kể bản Mường (Quắm Tố Mương – viết bằng chữ Thái cổ trên giấy gió, giấy bản) thì tộc người Thái ở Thanh Hóa có mối quan hệ gần gũi và chặt chẽ với người Thái ở Tây Bắc. Theo nhóm tác giả (do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên) tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái “suốt trong thiên niên kỷ thứ II, các chúa đất nước Thái thuộc dòng họ Lò Khăm (tiếng Thái Đen) phân nhau ra làm các chủ mường lớn… cũng từ đó, người Thái Đen tản dần sang Lào, vào miền núi Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh…”

Như vậy có thể khẳng định rằng, người Thái từ miền Tây theo hướng Tây Bắc – Đông Nam di cư vào Thanh Hóa, lúc đầu tập trung chủ yếu ở huyện Quan Hóa rồi dần dần tiến xuống theo dọc các dòng sông cho đến khi tiếp giáp với cư dân Mường thì dừng lại. Buổi đầu mới di cư vào “miền đất mới” ở tỉnh Thanh họ có riêng rẽ thành từng mường, mỗi mường do một người đứng đầu dòng họ cai quản, gọi là tạo mường. Trong mường thường có một vài dòng họ sinh sống – mối quan hệ kinh tế, xã hội mang tính chất thân tộc. Bởi vậy dòng họ thường được gắn liền với việc cai quản bản mường. (ví dụ như họ Hà ở mường Chanh, mường Pùng; họ Phạm ở mường Ánh, mường Ca Da…). Mối quan hệ hàng ngày mang tính chất thân tộc cộng với điều kiện kinh tế nương rẫy dần dần hình thành các mường có tính “cát cứ” khu biệt, mỗi mường như một “vương quốc” riêng theo luật lệ Thái quy định. Mỗi mường thường dựa vào sông suối hay núi cao có thung lũng để dựng bản, dựng mường. Yếu tố quyết định đến sự hình thành bản mường người Thái là “con nước” (sông suối). Tục ngữ Thái có câu “Táy kin nậm” nghĩa là Thái ăn theo nước. Ngày nay trong kho tàng truyện kể dân gian Thái rất phong phú các bài ca ngợi những người đi mở đất, xây dựng bản mường được lưu giữ lại trong cuốn “Quắm tố mương” (chuyện kể bản mường). Tục ngữ Thái có câu “o lóc có noong, xoong hương có bản”  (một vùng nước nhỏ cũng là ao, hai nhà cũng là bản). Như vậy bản là đơn vị tổ chức của một cộng đồng, một thực thể xã hội tồn tại chứa đựng nhiều mối quan hệ  của con người với tự nhiên và xã hội. Do sự hình thành cư dân Thái gắn liền là hạt nhân cấu thành bản. Bản là một tổ hợp của nhiều gia đình nhỏ (có gia đình có nhiều thế hệ, ông, cha, con, cháu cùng chung sống trong một nóc nhà). Trong bản các nóc nhà được bố trí theo kiểu “quần cư mặt tập”. Nếu nhìn toàn cảnh ta thấy đầu hồi nhà nọ sát với hồi nhà kia. Phải chăng đây là tàn dư của buổi đầu dựng bản.

Trong lịch sử hình thành bản Thái thường gắn liền sự tác động của con người với thiên nhiên và sự ra đời của tổ chức hình thái xã hội. Vì vậy, thiên nhiên và xã hội là đối tượng đặt tên cho đơn vị cư trú (bản). Đặt tên bản theo ngoại cảnh là hiện tượng phổ biến (ví dụ như núi Lát có tên là bản Lát, suối Sim có tên bản Sim) vì thế mà người ta dễ hình dung ra địa bàn cư trú của họ có đặc điểm gì là nổi bật. Ngoài hiện tượng đặt tên bản theo tự nhiên, người ta còn đặt tên bản theo ruộng và công trình thủy lợi (Na Tao – na là ruộng) cũng có nơi đặt tên bản theo hiện tượng tâm lý như bản Mòn – nghĩa là mơ ước. Từ đó ta có thể phân loại bản theo hai cách chủ yếu nhất, một là dựa vào sự tác động của con người đối với tự nhiên; hai là phân theo thành phần đẳng cấp xã hội, nhưng càng về sau thì những bản phân chia theo thành phần đẳng cấp chiếm đa số trông xã hội Thái xưa.

Như vậy vì quyền lợi chung mà các bản đã có nhu cầu hình thành một số tổ chức xã hội liên kết. Chính nhu cầu này đã được thực hiện khi cơ cấu tổ chức của mường ra đời. Cũng chính từ quyền lợi chung mà phát sinh ra luật lệ quy định nghĩa vụ của mọi thành viên sống trong tổ chức mường – nghĩa vụ ấy gọi là việc mường. Với sự xuất hiện nghĩa vụ của các thành viên trong việc mường được coi như luật của mường, nên ngoài việc con người dồn sức lao động để tạo ra cơm áo còn có một công việc ở ngoài lĩnh vực sản xuất vật chất đó là công sức bỏ ra trong việc mường – một việc có nhiều ý nghĩa trừu tượng nhưng hàm chứa ý nghĩa của cộng đồng và cho cả cộng đồng. Việc mường rất dễ bị lợi dụng cho mưu cầu lợi ích riêng, nhất là khi kẻ nắm quyền việc mường tham lam tàn ác.

Từ chỗ do nhu cầu tất yếu phải liên kết để tồn tại và phát triển, các dòng họ cũng trên cơ sở ấy mà lớn mạnh, sự lớn mạnh phân hóa dần thành người giàu người nghèo, dựa trên cơ sở phân chia ruộng công. Giai cấp bóc lột cũng từ đó mà ra đời và nó tồn tại mãi cho đến khi hình thành cải cách dân chủ năm 1960 mới chấm dứt.

– Đặc điểm và sự phát triển:

Người Thái ở Thanh Hóa có hai nhánh gọi là Thái trắng (Táy Dọ) và Thái đen (Táy Đăm). Người Thái trắng chủ yếu sống tập trung ở phía Tây Nam huyện Thường Xuân và một số bản giáp với Triệu Sơn. Người Thái đen chiếm đa số, sống tập trung ở các huyện Quan Hóa Bá Thước, Lang Chánh, Thường Xuân, Như Xuân, Như Thanh. Dân số: 209.806 người (1/4/1999), (cả nước có 1.200.000)

Đặc điểm của người Thái trắng và Thái đen về cơ bản giống nhau, chỉ khác nhau ở trang phục phụ nữ, Thái trắng cạp váy ngắn, phần váy thêu hình con rồng. Còn về tiếng nói chỉ khác chút ít về cách phát âm, cùng chung ngữ hệ Tày – Thái. Người Thái có chữ viết riêng, ở nhà sàn; trước đây còn có nhiều thế hệ ở chung trong một nhà, nay thì đã phân chia thành các gia đình theo cặp vợ chồng.

Người Thái ở theo nước, bản làng trù phú đông vui có luật Mường, lệ bản quy định rõ ràng về quyền lợi và nghĩa vụ cho mỗi thành viên trong cộng đồng. Ai vi phạm sẽ bị phạt bằng bạc trắng hoặc rượu, thịt, gạo, trâu, bò.

Trước cách mạng tháng tám năm 1945, vùng cư trú của người Thái có 35 mường, thuộc 6 dòng họ: Họ Hà: 12 mường; họ Phạm Bá: 13 mường; họ Lang: 9 mường; họ Đinh: 1 mường… Trong đó mường Chiêng Vạn, mường Khô, mường Khoòng, mường Ca Da là những mường lớn vì có người của mường là Tri châu.

2.2. Dân tộc Mường.

– Nguồn gốc và sự hình thành dân cư:

Người Mường ở Thanh Hóa phân chia ra Mường trong và Mường ngoài. Người Mường trong theo quan niệm của đồng bào là mường gốc. Người Mường ngoài từ Hòa Bình chuyển vào Thạch Thành và một phần của huyện Cẩm Thủy.

Người Mường trong coi trung tâm của mình là vùng đất Mường Ống của huyện Bá Thước. Ở đây có núi cao, sông Mã chảy qua và có nhiều hang động, có di chỉ khảo cổ Mái đá Điều. Đặc biệt vùng đất này được miêu tả kĩ trong cuốn sử thi Mường “Đẻ đất đẻ nước”. Người Mường ngoài, chủ yếu sống tập trung ở huyện Thạch Thành.

Dựa vào tài liệu sử, khảo cổ, nhân chủng, văn học dân gian… đã được công bố thì người Mường cùng chung một nguồn gốc với người Việt cổ.

Dân cư Mường sinh sống chủ yếu hiện nay là vùng đồi và núi thấp, có khả năng phát triển kinh tế đồi rừng. Địa bàn cư trú của người Mường ở Thanh Hoá tập trung ở các huyện:

Quan Hoá:        11.910 người

Bá Thước:        47.238 người

Lang Chánh:      13.169 người

Ngọc Lặc:         77.430 người

Thường Xuân:     3.062 người

Cẩm Thuỷ:        48.240 người

Thạch Thành:     57.735 người

Như Xuân:        18.780 người

Thọ Xuân:           6.991 người

Triệu Sơn:           4.267 người

Vĩnh Lộc:               743 người

Hà Trung:               945 người

Tổng cộng: 290.519 người (số liệu năm 1993). Đến năm 1999 tăng lên 322.879 người, trong khi cả nước có 914.600 người.

Như vậy, ở các huyện miền núi và các miền của Thanh Hoá đều có người Mường sinh sống. Dân tộc Mường có dân số nhiều nhất (sau đó là Thái) so với các dân tộc ở miền núi Thanh Hoá.

– Đặc điểm và sự phát triển:

Người Mường ở Thanh Hoá sống tập trung ở Ngọc Lặc, Bá Thước, Lang Chánh, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành. Sau này có thiên di vào vùng núi thấp của Quan Hoá, Như Xuân, Thường Xuân và các huyện giáp ranh với miền núi.

Người Mường ở nhà sàn, quần tụ lại thành chòm bản ở chân đồi hoặc gần sông suối. Nguồn sống chủ yếu của đồng bào dựa vào ruộng, rẫy, bãi bồi ven sông suối. Nghề chính của họ là làm ruộng, rẫy. Nghề đan lát chủ yếu là tự túc tự cấp phục vụ cho sinh hoạt trong gia đình. Người Mường có một nền văn hoá lâu đời, dân ca, dân vũ phong phú đa dạng. Người Mường chưa có chữ viết; ngôn ngữ theo nhóm ngôn ngữ Việt Mường.

Trước Cách mạng Tháng Tám, cuộc sống của đồng bào Mường thuộc vào thổ ti lang đạo. Vùng Mường cư trú có 39 mường, thuộc 7 dòng họ cai trị:

Họ Hà 4 mường; họ Phạm 15 mường, họ Lê Xuân 4 mường; họ Trương Công 5 mường; họ Cao 2 mường. họ Quách 2 mường; họ Nguyễn Đình 7 mường.

Trong đó có 4 mường lớn là: mường Dược thuộc họ Nguyễn Đình; mường Lân Ru thuộc họ Quách; mường Chếch thuộc họ Lê Xuân; mường Rặc thuộc họ Phạm.

Về hình thức tổ chức xã hội, bộ máy cai trị và các cách thức chiếm đoạt bóc lột của chế độ thổ ti lang đạo người Mường cũng tương tự như ở người Thái, chủ yếu là dựa vào thẩm quyền và cường quyền để bóc lột.

2.3. Dân tộc H.Mông.

Ở miền núi Thanh Hoá, các dân tộc Thái và Mường chiếm đa số và giữ – vị trí quan trọng về phát triển kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng. Còn các dân tộc H.Mông, Dao, Khơ Mú vừa ít về số lượng, đang sống cảnh du canh, du cư, cho nên liên tục có những biến động lớn. Tuy vậy, mỗi dân tộc đều có sức mạnh riêng và đều tham gia tích cực vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Đồng thời, mỗi dân tộc lại mang sắc thái riêng làm nên sự phong phú, đa dạng của một tỉnh có nhiều dân tộc.

Dân tộc H.Mông ở Thanh Hoá trước 1992 chỉ có một số ít, ở một số chòm. Từ năm 1992, dân tộc H.Mông ở các tỉnh phía Bắc, từ Sơn La và Lào di cư đến, sống tập trung ở xã Pù Nhi, Trung Lý (Mường Lát) theo các cụ kể lại cách ngày nay 4 – 5 đời.

Trước đây đồng bào sống tập trung ở xã Pù Nhi có 14 chòm, một chòm Pù Dứa ở xã Quang Chiểu và một chòm Pù Nghiu ở xã Tam Chung. Có 2 dòng họ Thao và Hớ là 2 dòng họ lớn thay nhau và cùng nhau quản lí; còn các dòng họ Lâu, Sung là những dòng họ nhỏ. Sau Cách mạng Tháng Tám họ mới có điều kiện tham gia công tác xã hội.

Người H.Mông sống du canh du cư. Sau 26 năm vận động định canh định cư ở vùng này đã đem lại cho đồng bào nhiều biến đổi. Trước năm 1945, người H.Mông chỉ có 900 người sống trên đỉnh núi Pù Nhi, vùng Toọng Ma Pa Pứng. Đến năm 1994 dân số tăng lên 5.044 người trong đó có hơn 2.000 người di cư từ năm 1992 vào (từ Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Nghĩa Lộ). (dân số năm 1999: 13.863 người, trong đó di cư từ các nơi đến từ năm 1990 đến nay khoảng 8.000 người (cả nước 558.000).

Địa bàn cư trú của đồng bào H.Mông (cũ và mới) đều tập trung vào vùng núi cao, rừng nguyên sinh đầu nguồn sông suối. Cuộc sống dựa vào đốt rừng làm nương rẫy. Trong những năm vận động định canh định cư đồng bào có khai hoang làm ruộng, song lại bỏ vì thiếu nước.

Tuy ở núi cao, nhưng đồng bào có phong trào đi học tốt do công lao vận động của Anh hùng lao động, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Xuân Trạc. Nhờ có giáo dục phát triển nên 48 cán bộ, giáo viên người H.Mông đã được đào tạo, trong đó có người tốt nghiệp đại học. Giáo dục ở Pù Nhi đã thành điển hình giáo dục vùng cao trong cả nước.

Đặc điểm: có tiếng nói, chữ viết riêng, có những phong tục tập quán đặc biệt để ràng buộc các thành viên trong cộng đồng. Tâm lí của người H.Mông là tư tưởng duy lí mà ta thường quen gọi là lí “mẹo”. Họ đã tin là bất biến, khó làm thay đổi được chính kiến của họ. Trong quan hệ xã hội thì vai trò dòng họ chi phối các mối quan hệ khác. Đôi khi “tộc quyền” chi phối cả “chính quyền”. Hiện nay, vùng đồng bào H.Mông cư trú gặp khó khăn nhất trong tỉnh. Đường giao thông từ huyện đến trung tâm xã, đến các làng còn là đường mòn dốc cao. Nếu như trước đây đồng bào chỉ ở các xã Pù Nhi, Quang Chiểu, thì đến năm 1992 do người H.Mông từ ngoài vào nên địa bàn lan toả ra 7 xã Sơn Thuỷ, Trung Thành, Trung Sơn, Trung Lý, Pù Nhi, Quang Chiểu, Tam Chung ở vùng cao biên giới.

2.4. Dân tộc Dao.

Đồng bào dân tộc Dao ở Thanh Hoá, theo các cụ già kể lại (và có một số dòng họ còn giữ được gia phả), là từ Tuyên Quang, Vĩnh Phú, Quảng Ninh chuyển vào khoảng 4 đến 5 đời.

Khi mới chuyển vào Thanh Hoá, đồng bào sống ở vùng núi cao của huyện Quan Hoá, Bá Thước, Lang Chánh. Từ 1968 có cuộc vận động định canh, định cư, vận động đồng bào xuống núi. Từ các đỉnh núi cao đồng bào tự nguyện sống thành từng xóm lẻ cho đến nay.

Ở vùng cao huyện Mường Lát có 2 nhóm: Chòm Suối Tút (xã Quang Chiểu) và chòm Pù Quăn (xã Pù Nhi), cả 2 chòm có 430 người. Nhóm này gọi là Dao Tiền.

Ở vùng núi thấp của huyện Ngọc Lặc có 3 chòm của 3 xã Phùng Minh, Ngọc Khê và Thạch Lập dân số 1.274 người. Ở huyện Cẩm Thuỷ có 6 chòm thuộc các xã Cẩm Châu, Cẩm Bình và Cẩm Liên, dân số 2.619 người. Nhóm này gọi là Dao Quần Chẹt. Tổng số dân tộc Dao 4.323 người (1994). Năm 1999 có 5.031 người (cả nước 470.000).

Hiện nay cả 11 chòm đều trong vùng vận động định canh, định cư. Đồng bào sống thành từng bản lẻ, xen ghép với đồng bào dân tộc Mường, H.Mông.

Tuy là cư dân sống du canh, du cư và nay là định cư, du canh, nhưng khả năng tiếp nhận và giao tiếp với xã hội bên ngoài của đồng bào rất nhạy bén, trình độ hiểu biết cao hơn so với các dân tộc xung quanh.

Đồng bào Dao dùng chữ Nho để ghi chép, khi đọc phát âm theo tiếng Dao. Ở các chòm đều có người biết chữ Nho, có nơi đã truyền dạy lại cho con cháu. Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Mông Dao.

Trong quan hệ xã hội đáng chú ý là quan hệ dòng họ. Người Dao ở Thanh Hóa có họ Đại Triệu là họ lớn ngoài ra còn có họ Bàn, họ Phan, họ Phùng.

Hàng năm đồng bào có làm lễ cấp sắc cho những thành viên trong họ nhằm tăng thiết chế đồng tộc. Trong quan niệm của đồng bào Dao, người nào chưa đưọc cấp sắc thì được tôn trọng, đã cấp sắc rồi thì phải sống chết với đồng tộc.

Nhà cửa đồng bào làm theo kiểu nửa sàn, nửa đất. Đến nay, trừ 2 chòm ở vùng cao, đồng bào Dao ở vùng thấp làm nhà theo kiểu chồng giường bẩy kẻ, theo kiểu nhà người Kinh.

Nguồn sống của đồng bào dựa vào nương rẫy, thực hiện định canh định cư. Đồng bào đã đắp hồ đập xây dựng đồng ruộng, làm vườn nhà, vườn rừng. Các nhóm đều có lớp học cho các em nhỏ, đến nay đã có nhiều người có trình độ đại học.

Tuy sống xen ghép với dân tộc đông người, nhưng bản sắc dân tộc Dao không bị pha trộn. Họ vẫn giữ được tính độc đáo, riêng biệt. Hàng năm đồng bào vẫn tổ chức lễ hội truyền thống. Các bài hát, điệu múa vẫn được truyền lại cho con cháu.

2.5. Dân tộc Khơ Mú.

Bộ phận dân tộc Khơ Mú ở Thanh Hoá, từ xã Tranh Đấu, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La chuyển đến, cách đây khoảng 70 năm – 100 năm. Có 2 chòm, chòm Lách ở xã Mường Chanh và chòm Đoàn Kết ở xã Tén Tần huyện Mường Lát Hai chòm này sát đường biên người Việt – Lào. Dân số 2 chòm có 558 người. Năm 1999: 642 người (cả nước có 43.000 nguời).

Đây là dân tộc thiểu số vào loại đặc biệt khó khăn của tỉnh. Về tên gọi có 4 tên khác nhau. Đồng bào tự gọi mình là Khơ Mú, các dân tộc khác gọi là dân tộc Tình, Đoàn Kết. Dân tộc Khơ Mú Thanh Hoá kiêng không được gọi họ là dân tộc Xá (vì danh từ xá họ cho là từ miệt thị ).

Người Khơ Mú ở tỉnh Thanh Hoá có 5 dòng họ, mỗi dòng họ đều kiêng một “con” hay một “cây”.

Họ Lương kiêng con cọp.

Họ Lò kiêng chim “tăng lo”.

Họ Chinh kiêng cây “tu vạ cút”.

Họ Pít kiêng chim “rích”.

Họ Tơmong kiêng con “cầy cun”.

Mối quan hệ dòng họ rất nghiêm ngặt. Tộc trưởng có quyền quyết đoán mọi chuyện. Người Khơ Mú hầu như chỉ quan hệ với bên ngoài về kinh tế như trao đổi mua bán các mặt hàng gia dụng, thuốc men. Còn quan hệ tình cảm, văn hoá khép kín trong đồng tộc. Họ có tư tưởng tự ti, mặc cảm vì cho rằng mình quá lạc hậu và “xấu… Khó khăn nhất hiện nay là họ không có người “cúng” và trai gái thành niên khó khăn trong việc lấy vợ lấy chồng vì chỉ ở chòm bản đều là anh em họ hàng.

Hiện nay đường vào chòm bản đã mở rộng thông suốt, xe máy có thể qua sông vào chòm được. Từ năm 1993, nhờ thực hiện dự án đầu tư hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn, làng bản đã quy hoạch xây dựng mới, có đường sá, có nước sạch, có trạm thu hình chương trình truyền hình Việt Nam, có trường học cho trẻ em học sinh cấp I. Có chi bộ Đảng, dân tộc Khơ Mú không có chữ viết, tiếng nói theo nhóm ngôn ngữ Khơ Me.

2.6. Dân tộc Thổ.

Dân tộc Thổ tập trung ở huyện Như Xuân gồm các xã Yên Lễ, Yên Cát, Cát Tân, Cát Vân, Bình Lương, Xuân Bình thị trấn Bãi Trành, Thượng Ninh, Tân Bình, Hoá Quỳ, Xuân Quỳ, Dân số: 7.642 (năm 1994). Năm 1999: 9.464 người (cả nước có 51.000).

Người Thổ quê ở Thanh Hoá chỉ có một họ duy nhất là họ Lê. Người Thổ có nhiều nét gần với người Mường và người Kinh.

II. HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KỸ THUẬT:

1. Kết cấu hạ tầng giao thông vận tải:

Thanh Hóa có hệ thống giao thông thuận lợi cả về đường sắt, đường bộ, đường không và đường thuỷ:

– Tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua địa bàn Thanh Hoá dài 92km với 9 nhà ga, thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá và hành khách.

– Đường bộ có tổng chiều dài trên 8.000 km, bao gồm hệ thống quốc lộ quan trọng như: quốc lộ 1A, quốc lộ 10 chạy qua vùng đồng bằng và ven biển, đường chiến lược 15A, đường Hồ Chí Minh xuyên suốt vùng trung du và miền núi; Quốc lộ 45, 47 nối liền các huyện đồng bằng ven biển với vùng miền núi, trung du của tỉnh, quốc lộ 217 nối liền Thanh Hoá với tỉnh Hủa Phăn của nước bạn Lào.

– Thanh Hoá có hơn 1.600 km đường sông, trong đó có 487 km đã được khai thác cho các loại phương tiện có sức chở từ 20 đến 1.000 tấn. Cảng Lễ Môn cách trung tâm Thành phố Thanh Hoá 6km với năng lực thông qua 300.000 tấn/năm, các tàu trọng tải 600 tấn cập cảng an toàn. Cảng biển nước sâu Nghi Sơn có khả năng tiếp nhận tàu trên 5 vạn tấn, hiện nay đang được tập trung xây dựng thành đầu mối về kho vận và vận chuyển quốc tế.

– Đầu năm 2013, Cảng hàng không Thọ Xuân được đưa vào sử dụng dân sự, tính đến nay Cảng hàng không Thọ Xuân đã có các tuyến bay đi miền Nam và Tây Nguyên. Số lượt hành khách qua cảng năm 2013 là 90.000, năm 2014 là 160.000 (tăng gần 78%) và chỉ trong 6 tháng đầu năm nay đã đạt con số 280.000 lượt, tăng hơn 156 % kế hoạch năm. Dự kiến, đến hết năm 2015, lượng hành khách qua cảng Thọ Xuân sẽ đạt 400.000 lượt. Hiện cảng hàng không Thọ Xuân đang phấn đấu trở thành dự bị cho cảng hàng không quốc tế Nội Bài.

2. Hệ thống điện: 

Mạng lưới cung cấp điện của Thanh Hoá ngày càng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo cung cấp điện ổn định cho sản xuất và sinh hoạt.

Hiện tại điện lưới quốc gia đã có 508 km đường dây điện cao thế; 3.908 km đường dây điện trung thế, 4.229 km đường dây điện hạ thế; 9 trạm biến áp 110/35/6-10 KV; 38 trạm trung gian; 2.410 trạm phân phối. Năm 2005, điện năng tiêu thụ trên 1,2 triệu Kwh. Đến nay, 27/27 huyện, thị, thành phố với 94% số xã phường và 91% số hộ được dùng điện lưới quốc gia.

Tiềm năng phát triển thuỷ điện tương đối phong phú và phân bố đều trên các sông với công suất gần 800 MW. Ngoài những nhà máy thuỷ điện lớn như Cửa Đặt, bản Uôn đang và sẽ đầu tư, Thanh Hóa có thể phát triển nhiều trạm thuỷ điện nhỏ có công suất từ 1-2 MW.

3. Hệ thống Bưu chính viễn thông:

Trong những năm qua, hệ thống bưu chính viễn thông của Thanh Hóa đã phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thông tin liên lạc trong tỉnh, trong nước và quốc tế với các phương thức hiện đại như telex, fax, internet.

Năm 2015, 100% trung tâm xã các xã, phường, thị trấn có hạ tầng truyền dẫn cáp quang, có 4.210 trạm BTS (trong đó có 2.650 trạm 2G, 1.560 trạm 3G) đặt tại 2.232  vị trí trạm BTS. Thuê bao điện thoại hiện có 2.742.000 thuê bao, mật độ đạt gần 77,9 máy/100 dân; Có trên 690.000 thuê bao internet cố định hữu tuyến, vô tuyến đạt, mật độ 19,61 thuê bao/100 dân. Trên địa bàn tỉnh hiện có 9 doanh nghiệp hoạt động cung cấp dịch vụ bưu chính và chuyển phát; 634/635 điểm phục vụ bưu chính; 591/635 xã phường thị trấn có báo đọc trong ngày xuất bản. 100% các trường THPT, 98,7% các trường THCS và 30,44 % các trường tiểu học đã có phòng máy tính riêng làm phòng học thực hành dạy CNTT, mỗi phòng trung bình có 20 máy tính; 80% các bệnh viện đã ứng dụng CNTT phục vụ chuyên môn, nghiệp vụ.

Mục tiêu đến năm 2020, tỉnh Thanh Hóa nằm trong nhóm các tỉnh, thành phố có hạ tầng kỹ thuật viễn thông thụ động phát triển tiên tiến, hiện đại của cả nước. Trong đó, phát triển băng thông rộng đến hầu hết các thôn, bản; khoảng 35 đến 40% số hộ truy cập internet băng thông rộng (từ 10 đến 15% truy cập Internet băng thông rộng cố định); phủ sóng thông tin di động băng thông rộng đến 95% dân cư.

4. Hệ thống cấp nước: 

Hệ thống cung cấp nước ngày càng được mở rộng, đáp ứng yêu cầu cho sinh hoạt và sản xuất, nhất là ở khu vực thành phố, thị xã, thị trấn và các khu công nghiệp. Nhà máy nước Mật Sơn và Hàm rồng với công suất 30.000m3/ngày đêm, đang chuẩn bị mở rộng lên 50.000 m3/ngày đêm đảm bảo cấp nước sạch đủ cho Thành phố Thanh Hoá, thị xã Sầm Sơn và các khu công nghiệp Lễ Môn, Đình Hương. Tỉnh đang triển khai xây dựng nhà máy cấp nước cho Khu kinh tế Nghi Sơn và các thị trấn cấp huyện. Đến nay, 80% dân số nông thôn và 90% dân số thành thị đã được dùng nước sạch. Các cơ sở sản xuất kinh doanh đều được cung cấp đủ nước theo yêu cầu.